CUỘC CÁCH MẠNG 4.0, LÝ THUYẾT ĐÔ THỊ VÀ HOẠT ĐỘNG QUY HOẠCH – KIẾN TRÚC

Trong 250 năm qua, xã hội loài người đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất xảy ra ở Anh cuối thể kỷ 18 gắn với sự ra đời của động cơ hơi nước. Cuộc cách mang công nghiệp lần thứ hai bắt đầu từ 1870 đến 1914, đặc trưng bởi các hệ thống chế tạo sản phẩm hàng loạt dựa trên dây chuyền sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba là của công nghệ số, bắt đầu từ chiếc computer đầu tiên xuất hiện vào năm 1942 ở Hoa Kỳ.  

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hay còn gọi là Công nghệ 4.0 là một cụm từ xuất phát từ một nhóm chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, kinh doanh, học thuật của Đức tại Hội Chợ Hanover năm 2011 sau khi chính phủ Đức đưa ra một đề án nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghệ chế tạo của Đức. Chính phủ liên bang Đức đã dùng cụm từ này trong bản Chiến Lược cho Công Nghệ Cao tới năm 2020. Sau đó một nhóm chuyên gia được thành lập để nghiên cứu về vấn đề này và hai năm sau, năm 2013, nhóm này cho ấn hành Bản Báo Cáo Cuối Cùng về Công Nghệ 4.0.

Khác với các phát minh khoa học công nghệ đã dẫn tới ba cuộc cách mạng trước đây, bản chất của công nghệ 4.0 là sản xuất ra các sản phẩm thông minh, biết tương tác với nhau dựa trên công suất tính toán khổng lồ của điện toán đám mây. Vì đô thị về bản chất là một sản phẩm tích hợp phức tạp nhất mà con người tạo ra, rõ ràng Công nghệ 4.0 chắc chắn chỉ có thể thành công đúng nghĩa nếu tạo ra được các đô thị thông minh.

 Nếu ta đồng ý với nhân định đô thị là phát kiến quan trọng nhất của văn minh loài người (Glaeser, 2011), thì không thể bỏ qua các cố gắng nghiên cứu lý thuyết không mệt mỏi để thực sự hiểu được bản chất của của quá trình hình thành và phát triển đô thị. Nếu câu chuyên về đô thị đã được bắt đầu từ thời cổ Hy Lạp với các tác giả kinh điển như Plato (423 -348 BC) và Aristotle (384 – 322 BC) thì những người khai sinh ra nghành kinh tế học như A. Smith (1723 -1790), D. Ricardo (1772 – 1823), K. Marx (1818 – 1883) đều đã có những đóng góp lớn vào lý thuyết địa tô vốn là nền tảng của các loại cấu trúc đô thị.

Nhưng cho đến von Thunen (1783 – 1850) trong các nghiên cứu của ông về sử dụng đất nông nghiệp và thị trường hàng hóa (1826) thì một lĩnh vực kiến thức mới đã được chính thức thành lâp, với tên gọi là lý thuyết vị trí (location theory), dùng để giải thích phương thức phân bố địa lý của dân cư và các cơ sở sản xuất. Cùng với  A. Weiber (1868 -1958) (vị trí  cơ sở sản xuất công nghiệp, 1929), W. Christaller (1893 – 1969) (hệ thống các điểm dân cư và cấu trúc thị trường, 1933 ) và cuối cùng là W. Alonso (1933 – 1999) (đánh đổi giữa chi phí đi lại và chi phí nhà ở, 1964), các lý thuyết vị trí (location theories) mới được coi là đáp ứng được yêu cầu và trở nên nhóm lý thuyết chủ đạo về cấu trúc dân cư và các cơ sơ sản xuất đô thị, được áp dụng gần như ở khắp các nước trên thế giới.

Tuy nhiên, với sự phát triển của các đô thị trên quy mô tòan cầu, đặc biệt từ sau thế chiến II, đặc trưng bởi sự chuyển đối khách quan và không gì ngăn cản được từ mô hình đơn cực (đồng tâm) sang mô hình đa cực của các thành phố, lý thuyết chủ đạo về cấu trúc đô thị “dòng chính” (mainstream) đã nhận được nhiều ý kiến phản biện thậm chí bất đồng mạnh mẽ về cách giải thich và dự báo động học phát triển (development dynamics).

Một số tác giả, dựa vào các công cụ nghiên cứu mới xuất hiện do sự ra đời của máy tính điện tử, đã đề xuất các hướng lý thuyết mới trong lĩnh vực này. Một trong các hướng đề xuất này liên quan đến một công trình nghiên cứu sau – tiến sỹ của tác giả bài báo này, đó là lý thuyết Vị thế – Chất lượng hay lý thuyết SQTO (Status Quality Trade Off theory). 

Lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO) được TS. Hoàng Hữu Phê và Giáo sư Patrick Wakely phát triển và công bố vào năm 2000 tại Đại học Tổng hợp London (UCL) dưới tiêu đề “Vị thế, chất lượng và sự lựa chọn khác: Tiến tới một lý thuyết mới về vị trí dân cư đô thị” (Phe & Wakely, 2000). 

Vì các đóng góp về mặt lý luận và tiềm năng ứng dụng, công trình đã được tặng Giải thưởng Kỷ niệm Donald Robertson (Donald Robertson Memorial Prize 2000) cho nghiên cứu xuất sắc nhất trong năm 2000 của tờ Urban Studies (Đô thi học), một tạp chí quốc tế hàng đầu xuất bản tại Vương quốc Anh. Đây là một giải thưởng uy tín về mặt học thuật trong lĩnh vực nghiên cứu đô thị trên thế giới, chỉ tặng mỗi năm một lần.

Công trình được trích dẫn rộng rãi trên các nghiên cứu trong lĩnh vực Urban Studies trên thế giới và gần đây, Bách khoa toàn thư Wiley Blackwell về Nghiên cứu Đô thị và Vùng (The Wiley Blackwell Encyclopedia of Urban and Regional Studies) (A. M. Orum ed., 2019), đã đề cập đến lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO), trong cách giải thích về quyết định lựa chọn nơi ở tại các đô thị.

Nội dung chính của lý thuyết SQTO mô tả động học (dynamics) của của việc hình thành và phát triển các khu  dân cư đô thị, tức là cơ chế của sự lựa chọn về nơi ở của người dân trong không gian đô thị.

Lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO) có thể được phát biểu vắn tắt như sau :

Được xây dựng như một hệ thống lý luận tổng quát nhằm giải thích sự hình thành và phát triển của cấu trúc đô thị trong nhiều hình thái kinh tế khác nhau, các hệ quả của lý thuyết Vị thế – Chất lượng đã dẫn đến việc xây dựng thành công một mô hình hoàn toàn mới về cư trú đô thị, trong đó sự đánh đổi giữa chi phí đi lại và chi phí nhà ở trong các mô hình cổ điển của Alonso (1964) được thay thế bằng sự đánh đổi giữa vị thế xã hội và chất lượng nhà ở, hoặc nếu nói chính xác hơn thì về mặt thực chất, có thể chứng minh rằng mô hình Alonso chỉ là một trường hợp đặc biệt của mô hình lý thuyết về Vị thế – Chất lượng.

 Như đã nói ở trên, về mặt bản chất, cách mạng 4.0 trong khu vực đô thị, đồng nghĩa với việc tạo ra các thành phố thông minh, trong đó các thành phần chức năng của chúng hoạt động theo các chương trình hiệu quả và tính hiệu quả này luôn luôn được cải thiện và tối ưu hóa dựa trên các công cụ tính toán và thu thập dữ liệu như điện toán đám mây (cloud computing),  crowdsourcing, trên nền tảng IoT (Internet vạn vật).

Các mô hình mới của cấu trúc đô thị cho phép xây dựng, quản lý và dự báo về hoạt động các thành phần chức năng này, trong khuôn khổ tác động tương hỗ giữa các thành tố vật thể, như quỹ nhà, hệ thống kỹ thuật hạ tầng, và các thành tố phi vật thể, như chính sách đô thị, thị hiếu, xu hướng xã hội, v.v..theo đúng các nguyên tắc đề xuất bởi lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO).

Trong các mối quan hệ tương hỗ này, nếu trước đây việc đo đếm định lượng hóa các yếu tố phi vật thể là một câu hỏi nan giải, thì ngày nay, với các công cụ tính toán thống kê hiện đại như hồi quy giá ẩn (hedonic regression, HR) hay hồi quy trọng số địa lý (Geographically Weighted Regression, GWR), kết hợp với việc sử dụng Số liệu lớn (Big Data) và các kỹ thuật Khai thác dữ liệu (Data Mining), có thể phân tích định lượng các yếu tố phi vật thể với độ chính xác và tính ổn định của kết quả rất cao.

Cần phải nói rằng, các tính chất đặc biệt của mối quan hệ tương hỗ giữa cái vật thể (tangible) và cái phi vật thể (intangible), vốn là nội dung cốt lõi của lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO), đã có thể có các dẫn chứng hùng hồn và bất ngờ từ các lĩnh vực rộng lớn và trọng đại hơn rất nhiều. Chẳng hạn, theo một báo cáo của The Bank of America, tỷ lệ giữa tài sản vật thể (tangible assets) và tài sản phi vật thể (intangible assets) của 500 công ty lớn nhất trên sàn chứng khoán Hoa Kỳ vào năm 1975 là 83/17, nhưng vào năm 2018, tỷ lệ này đã đảo ngược một cách ngoạn mục thành 16/84! (xem hình 7).

Khi các yếu tố phi vật thể vốn có tác dụng lớn lao đến sự hình thành và hoạt động của đô thị ở tất cả các quy mô, được định lượng hóa một cách đáng tin cậy thông qua các công cụ IT mới nhất, các ý tưởng và giải pháp quy hoạch sẽ được đề xuất phù hợp và mang lại hiệu quả xã hội lớn lao. 

Ở cấp độ các công trình kiến trúc cụ thể, mối tương tác vật thể – phi vật thể cũng có vai trò quan trọng không kém. Lao động sáng tạo của kiến trúc sư, ở một nghĩa nào đó, là hoàn toàn nhằm mục đích tăng tỷ trọng của giá trị phi vật thể trong toàn bộ giá trị công trình.

Với sản phẩm nhà ở và các dịch vụ đô thị là các loại hàng hóa trên thị trường, có thể coi thị trường nhà ở và BĐS đô thị như một cỗ máy thông minh khổng lồ hoạt động dựa trên các tương tác giữa người bán và người mua được hỗ trợ bởi một hệ thống marketing và bán hàng trong đó nhiều công đoạn được tự động hóa hoàn toàn. 

 Có thể nói với sự xuất hiện của cách mạng 4.0 trong hoạt động của lĩnh vực Quy hoạch – Kiến trúc, và dựa trên một trong các thành tựu mới nhất của lý thuyết vị trí là lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO) cùng với các công cụ IT và AI, cuối cùng chúng ta đã có thể tiến gần hơn đến việc giải mã đầy đủ các quy luật hình thành giá trị trong hoạt động Quy hoạch Kiến trúc.

Trong ngành Quy hoạch đô thị, sự thành công của một đô thị thường được gắn với

một câu châm ngôn, hay thậm chí có thể gọi là một câu phù chú muôn thuở: ’’Thứ nhất, vị trí, thứ nhì, vị trí và thứ ba, vị trí’’. Vậy vị trí là gì mà quan trọng đến thế?

Khi một vị trí địa lý dành cho một loại hình định cư nào đó được coi là thành công, đó là lúc nó trở thành một nơi chốn. Nếu vị trí được đặc trưng bởi các tọa độ địa lý và là một thực thể vật lý với các tính chất có thể đo đếm được trực tiếp, thì nơi chốn đặc trưng bởi sự gắn bó và mong muốn của con người được hiện diện tại đó vì nó phù hợp với nhận thức của người dân về các sở thích của họ, và còn quan trọng hơn, là nhận thức về vị thế của họ giữa cộng đồng. Sự gắn bó, mong muốn và nhận thức về vị thế này chỉ có thể đo được một cách gián tiếp, vì chúng là các đại lượng phi vật thể.

 Trở lại câu châm ngôn trên về sự lựa chọn của chúng ta về một vị trí cư trú trong không gian, các công cụ mà cuộc cách mạng 4.0 mang lại như đã nói ở trên cho phép chúng ta phân tích chính xác các yếu tố vật thể, và đặc biệt là các yếu tố phi vật thể đã và sẽ làm cho các vị trí/địa điểm khô khan trong các khu dân cư hiện nay của, chúng ta trở thành những nơi chốn đất lành chim đậu và thấm đẫm hồn đô thị.

Trong sáng tạo kiến trúc, sức mạnh của các yếu tố phi vật thể (ý tưởng công trình, hình ảnh tượng trưng, sự phù hợp với thị hiếu chủ đạo, etc.) làm nên thành công của những tác phẩm kiến trúc xuất hiện ở mọi thời đại dựa trên sự đánh giá của nền văn minh khác nhau, cho đến khi được thừa nhận bởi toàn nhân loại. Khối lượng thép, bê tông, gạch đá thiết bị cùng tất cả các vật liệu khác làm nên một công trình chưa bao giờ bảo đảm cho nó được coi là một thành công kiến trúc.

Được trang bị bằng các công nghệ IT hùng mạnh như Đồ họa máy tính (Computer Graphics), Hệ thống thông tin công trình (BIM), Hệ thống thông tin địa lý (GIS), Công nghệ in 3D (3D Printing) và các phần mềm hỗ trợ để nghiên cứu, thiết kế và sản xuất hồ sơ (thông thường hay điện tử), ở một khía cạnh nào đó, như chúng tôi đã nói ở trên, lao động sáng tạo của mỗi kiến trúc sư và nhà quy hoạch, chủ yếu và về thực chất, là cố gắng làm tăng tỷ trọng của các giá trị phi vật thể trong tổng giá trị của công trình.

Nếu các yếu tố phi vật thể như thị hiếu thẩm mỹ, tư duy logic  và năng lượng sáng tạo trước đây chỉ có thể cảm nhận được một cách định tính, thì các công cụ của thời đại 4.0, như Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence), Số liệu lớn (Big Data) và Khai phá Dữ liệu (Data Mining) có thể giúp chúng ta định lượng các chuẩn mực trừu tượng này và giải mã đến mức tối đa các công thức thành công của một lĩnh vực phụ thuộc mạnh mẽ vào khả năng sáng tạo như Quy hoạch & Kiến trúc.   

 

TS.KTS Hoàng Hữu Phê, R&D Consultants

Email: hhp-vncn@hn.vnn.vn

Website: http://rndconsultants.vn/

  (Bài đăng trong kỷ yếu Hội thảo Gặp gỡ mùa thu 2021)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Alonso W. (1964): Location and Land Use, Harvard University Press, Cambridge, Massachusetts.

Glaeser E. (2011): Triumph of the city: How urban spaces make us human. Pan Macmillan.

Hoàng Hữu Phê (2017): Nơi chốn và Vị trí  http://vupda.org/noi-chon-va-vi-tri/

Phe, H. H. & Wakely, P. (2000): Status, quality and the other trade-off: Towards a new theory of urban residential location. In Urban Studies, 37(1), 7-35. The Donald Robertson Memorial Prizewinner 2000.

Hình 1: Lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO): Mô hình 2D.

Hình 2: Lý thuyết Vị thế – Chất lượng (SQTO): Mô hình 3D.

Hình 3: Khảo sát 1.000 hộ gia đình tại Trung tâm Hà Nội năm 2014

Hình 4: Nội suy (Kriging) giá nhà Hà Nội

Hình 5: Khu đô thị cao tầng đầu tiên ở Hà Nội ứng dụng lý thuyết Vị thế – Chất lượng  và

công nghệ xây dựng tiền chế.

Hình 6: Computer Graphics rendering. Khách sạn Hải Đăng và Cánh Buồm ở Vịnh Hạ Long.

Hình 7: Năm 1975, giá tri vật thể/giá trị phi vật thể của 500 công ty Mỹ lớn nhất là 83/17. Năm 2018, tỷ lệ này đảo ngược thành 16/84! (Bank of America report).

Hình 8: Cách mạng 4.0, Đô thị kết nối, Cực Vị thế theo SQTO và đề xuất vị trí của  các Smart Cities tại Hà Nội.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *