Việt Nam có lợi thế với hơn 3.200km bờ biển nên việc xây dựng đô thị lấn biển không chỉ là một giải pháp để mở rộng quỹ đất mà còn chủ động ứng phó với thực trạng biển đang ngày một ăn sâu vào đất liền như hiện nay. Cần có sự nhìn nhận xa hơn, không chỉ lấn biển sát bờ mà còn cần tính đến cả các dự án cách xa bờ. Những khu vực có điều kiện lấn biển nên tính đến các dự án trong tương lai. Chúng ta cũng cần nghĩ đến việc kết nối các đảo nhỏ còn ít người ở, làm kè biển, đê biển, san lấp phát triển thành các điểm dân cư, khu đô thị mở, vừa có thêm quỹ đất vừa đảm bảo công tác an ninh quốc phòng tại các khu vực xa đất liền. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia ven biển có nhiều bài học kinh nghiệm và giải pháp tốt cho các dự án lấn biển để chúng ta học hỏi.
I. THẾ GIỚI:
1. Hà Lan:
Là một quốc gia có diện tích, đặc điểm địa lý và lịch sử khai phá rất tương đồng với khu vực Tây Nam Bộ của Việt Nam. Quốc gia ở phía tây bắc châu Âu này được biết đến như một đất nước nằm thấp nhất so với mực nước biển trên thế giới. Khoảng 26% diện tích lãnh thổ của Hà Lan thấp hơn mực nước biển, họ đã sử dụng giải pháp đê biển, kè biển để từng bước sử dụng phần đất thấp và lấn biển phía trong đê/kè.
Hình ảnh vệ tinh về khu vực lấn biển ở thành phố Rotterdam của Hà Lan. Ảnh: NASA
Diện tích Hà Lan rất nhỏ (gần 42.000km2) và dân số khoảng 17,4 triệu người, vậy nên đất là một tài sản vô cùng quý giá. Khoảng 21% dân số Hà Lan hiện đang sinh sống trong những vùng đất “ở dưới mặt biển”. Phần lớn diện tích đất ở Hà Lan hiện nay đều là vùng đất lấn biển.
Lịch sử của Hà Lan từ bao thế kỷ vẫn gắn liền với lịch sử chống lại lũ lụt và bồi đất lấn biển. Người Hà Lan đã nỗ lực giành đất từ biển và cải tạo đất bằng cách xây dựng những tuyến đê nhằm ngăn nước biển và tạo nên những vùng đất cao ráo có thể sinh sống và trồng trọt.
Những công trình thủy lợi tầm cỡ:
Địa danh nổi tiếng của Hà Lan về kỳ tích lấn biển là Volendam, một thị trấn nằm bên bờ Biển Bắc, nơi được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới nhờ vào các tuyến đê biển và những giá trị văn hóa, lịch sử mà 22.000 cư dân nơi đây còn bảo lưu được. Trước đây, Volendam là vùng đầm lầy ven biển. Những con đê đầu tiên được xây dựng cao khoảng 1-2m tuy giúp tránh được tình trạng ngập lụt hằng năm nhưng cũng biến Volendam thành “ốc đảo” chật chội, không thể đáp ứng nhu cầu đất đai để ở và canh tác, trong khi dân số ngày càng tăng lên. Thay vì nâng cao đê cũ, từ năm 1927 đến 1932, Hà Lan xây dựng đê mới Afsluitdijk dài 32km, rộng 90m, cao hơn 7m ngăn biển với hồ Ijmeer, tạo ra những chỗ trống cho nước dâng tự nhiên. Những khoảng trống này rất quan trọng, vừa làm giảm sức mạnh của dòng nước dẫn đến giảm bớt thiệt hại do lũ lụt, vừa có thể lợi dụng lớp trầm tích bồi lắng lâu ngày để cải tạo thành đất đai canh tác. Mực nước biển ngoài đê cao hơn mặt bằng các khu dân cư ở trong đê khoảng 5m.
Vẻ đẹp cổ kính của thị trấn Volendam bên bờ Biển Bắc. Ảnh: Pixabay.
Biểu tượng cho quy hoạch trị thủy của Hà Lan nằm ở Amsterdam – thủ đô của đất nước và là thương cảng sầm uất bậc nhất thế giới trong suốt “Kỷ nguyên Hà Lan hưng thịnh” (thế kỷ 17-18). Với địa hình thấp (0-1 m so với mực biển) và thường xuyên ngập lụt, Amsterdam đã chọn cách xây dựng nhiều không gian hơn cho nước dự trữ (ruimte voor de rivier) bằng hệ thống kênh đào kết nối chằng chịt. Chiến thuật được các nhà quy hoạch vận dụng là tạo ra mạng lưới kênh đào theo hình móng ngựa ôm lấy sông IJ. Các kênh đào được xây dựng song song, có dạng hình bán nguyệt đồng tâm (tâm nằm ở ngã ba sông IJ và Amstel), có nhiệm vụ phân tán nguồn nước từ sông Amstel. Nhờ vậy, dù nhỏ hẹp nhưng chiều dài và các cạnh khúc khuỷu đã giúp chúng giữ được nhiều nước hơn vào mùa lũ và giảm thiểu tốc độ dòng chảy của sông Amstel. Kênh đào lớn nhất được xây dựng vào năm 1585 (gọi là Singel), đóng vai trò là “vành đai” bao quanh vùng trung tâm, nơi giới thuợng lưu và tầng lớp quý tộc sinh sống. Đến thế kỷ 18, Amsterdam mở rộng về phía nam, vượt qua khỏi Singel, kéo theo sự ra đời của một loạt kênh đào mới song song với nó.
Amsterdam – Thành phố được mệnh danh là “Venice của phương Bắc”. Ảnh: Internet
Sau Chiến tranh thế giới thứ I, Hà Lan triển khai Dự án Zuiderzee (Zuiderzeewerken) hướng đến 3 mục tiêu: ngọt hóa vịnh Zuiderzee, tạo ra các polder (giành đất từ biển cả) mới để canh tác nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực và bảo vệ vùng trung tâm Hà Lan khỏi ảnh hưởng từ Biển Bắc. Năm 1932, nỗ lực “ngọt hóa Hà Lan” gây tiếng vang khi hoàn thành Dự án Afsluitdijk – một con đê dài 32 km, cao 7,2 m và rộng 90 m, nối liền các tỉnh bắc Hà Lan (North Holland) với tỉnh Friesland. Con đê này chia cắt vùng vịnh cạn Zuiderzee thành hai nửa: phía bắc là vùng nước mặn thông với Biển Bắc, phía nam là hồ IJsselmeer (khoảng 1.100 km2) được mau chóng ngọt hóa từ nguồn nước của sông Rhine. Hồ IJsselmeer đóng vai trò sống còn bởi nó là nguồn dự trữ nước ngọt lớn nhất cho nông nghiệp và đời sống của dân cư các tỉnh miền bắc Hà Lan. Nhiều thành phố phát triển năng động nhất hiện nay như Lelystad, Almere, Wieringermeer hay tỉnh Flevoland (tỉnh thứ 12 của Hà Lan) cũng được hình thành trên các polder mà Dự án Zuiderzee tạo ra.
Từ năm 1950, Hà Lan triển khai tiếp Dự án Đồng bằng (Deltawerken) với mục tiêu chính là bảo vệ vùng đồng bằng Tam Giang khỏi xói lở và xâm nhập mặn từ biển. Dự án này kéo dài đến cuối thập niên 90 khi hàng loạt công trình như đê biển, cống ở các cửa sông và hồ chứa được hoàn tất. Năm 1997, Dự án Đồng bằng và Dự án Zuiderzee được Hội Kỹ sư dân sự Hoa Kỳ công nhận là 1 trong 7 kỳ quan thế giới mới.
2. Nhật Bản:
Một trong những thành tựu lấn biển điển hình của Nhật Bản là sân bay mới được lập ngoài khơi Kansai (TP Osaka). Một kiểu “đảo sân bay” nhân tạo duy nhất trên thế giới với tư tưởng mới không chỉ lấn biển (kiểu bán đảo) mà còn tiến sâu ra biển (kiểu đảo mới).
Ý tưởng về sân bay mới trên một hòn đảo nhân tạo dài 4.000m và rộng hơn 1.200m ra đời từ thập niên 1980. Dự án chính thức khởi công vào năm 1987, cách bờ khoảng 5km. Đội ngũ kỹ sư khởi công dự án bằng cách đào 1,2 triệu giếng cát xuống lớp bồi tích, nhằm ổn định đáy biển cho đủ vững chãi để nâng đỡ hòn đảo nhân tạo. Tiếp đó, một bức tường bê tông dài 11km được hoàn thành trong vòng 3 năm, bao quanh khoảng đất xây sân bay như thành của bể bơi, ngăn nước biển tràn vào. Hệ thống này chứa 48.000 khối bê tông, mỗi khối nặng 200 tấn, được xếp xuống nền móng và 180 triệu mét khối đất lấy từ ba ngọn núi được đổ đầy vào khoảng trống bên trong bức tường cao tới 30m. Năm 2007, một đảo nhân tạo thứ hai đi vào hoạt động để giảm tác động của máy bay lên đường băng và nhà ga số 1. Đảo nhân tạo này có đường băng dài 4.000m và nhà ga số 2. Bên cạnh những thành tựu đáng ngưỡng mộ về kiến trúc và kỹ thuật, sân bay Kansai còn là một trong những trang trại năng lượng mặt trời lớn nhất tại châu Á. Bên cạnh đó, sân bay còn sử dụng các phương tiện chạy bằng khí hydro, áp dụng các công nghệ tiên tiến để xử lý nước thải.
Sân bay Kansai được xây dựng trên đảo nhân tạo. Ảnh: Internet
3. Singapore:
Dự án công viên ven biển bên bờ Vịnh Mariana là nguồn tham khảo có rất giá trị cho Việt Nam. Quốc đảo sư tử biển tập trung bồi lấp vùng ven biển, đầm vũng hoặc nối các hòn đảo với nhau. Quy trình lấn biển gồm 5 giai đoạn là nhồi cọc xuống lòng biển có độ sâu không quá 15m để gia cố nền đáy, dựng tường cát để đẩy nước biển ra xa, đổ cát vào để san bằng và nén cát, xây tường đá granite ngăn cát rửa trôi, phủ xanh cây cỏ để chống xói mòn bền vững. Sau 1-5 năm, đất mới đã có thể phục vụ hoạt động xây dựng.
Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5km2 ở thập niên 1960 lên 697,25km2 ngày nay và có thể sẽ tăng thêm 100km2 nữa đến năm 2030. Trong đó, khu nghỉ dưỡng Marina Bay Sands mở cửa vào ngày 27-4-2010 được xây trên diện tích lấn biển với lượng cát được đổ từ những năm 1970. Đây là tổ hợp khu kinh doanh, nghỉ dưỡng kết hợp casino, toạ lạc bên bờ vịnh Marina.
Mặt khác, Singapore đang cố gắng bớt phụ thuộc vào nguồn cung cát từ nước ngoài. Họ dùng đất cát từ các công trình xây dựng ngầm để chuyển sang các công trình lấp biển. Các dự án dưới lòng đất của Singapore sẽ được sử dụng cho mục đích công nghiệp vì hầu hết người dân sẽ không sẵn lòng chuyển xuống sinh sống dưới lòng đất. Phần lớn nguyên vật liệu dùng trong công trình siêu cảng biển là đất đá từ các công trình xây dựng.
Một dự án lấn biển của Singapore. Ảnh: Singaporesensetravel
4. Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE)
Các Tiểu vương quốc Ả Tập thống nhất có 2 công trình lấn biển nổi tiếng là Palm Jumeirah và Deira Islands ở Dubai. Palm Jumeirah có hình dáng giống một cây cọ với thân vây và 17 cành. Khu tổ hợp này được bao quanh bởi một hòn đảo hình lưỡi liềm dài gần 11km. Đây là nơi có nhiều khách sạn và khu nghỉ dưỡng xa xỉ. Dự án này được khởi công vào năm 2001 bởi công ty Nakheel Properties. Công trình này có hơn 60km bãi biển, tiêu tốn 12,3 tỷ USD và 7 năm để hoàn thành. Trong khi đó, Deira Islands là dự án có quy mô lớn gấp 8 lần Palm Jumeirah, được giới thiệu vào năm 2004. Tuy nhiên, tới năm 2013, chủ đầu tư Nakheel Properties đã chuyển sang xây dựng 4 hòn đảo nhân tạo nhỏ hơn thay vì một đảo lớn. Dự án bổ sung thêm 21km vào đường bờ biển của UAE và trải dài trên tổng diện tích 15,3 km vuông. Đây là công trình lấn biển giúp gia tăng thêm số lượng đảo nhân tạo đáng kể. Quy hoạch tổng thể của công trình bao gồm bốn Quần đảo lớn được kết nối với nhau bằng những cây cầu.
Khu tổ hợp Palm Jumeirah. Ảnh: Gulf News.
II. VIỆT NAM
Thành phố Rạch Giá – Kiên Giang:
Sau 20 năm xây dựng, khu lấn biển TP. Rạch Giá – Kiên Giang, khu đô thị lấn biển đầu tiên của Việt Nam đã trở thành niềm tự hào của người dân Kiên Giang, là điểm nhấn thu hút các nhà đầu tư tiềm năng và du khách. Từ vùng đất sình lầy, hoang vắng nay đã thành khu đô thị hiện đại. Sau thành công từ dự án lấn biển đầu tiên vào năm 1999, năm 2015, TP. Rạch Giá tiếp tục khởi công dự án lấn biển thành phố tại khu tây bắc với diện tích gần 100 ha và khu vực bãi bồi tự nhiên 16 ha.
Khu đô thị lần biển Thành phố Rạch Giá, Kiên Giang. Ảnh: Zing.
Dự án lấn biển xây dựng khu đô thị mới TP Rạch Giá đã được UBND tỉnh Kiên Giang phê duyệt quyết toán hoàn thành vào ngày 28/12/2015. Trong đó bao gồm các hạng mục công trình đã hoàn thành cở sở hạ tầng như: xây kè, san lấp mặt bằng, đường điện, nước, cây xanh… với tổng mức đầu tư 481 tỷ đồng, thấp hơn nhiều so với tổng chi phí đầu tư theo dự toán ban đầu là 853 tỷ đồng. Dự án đã bàn giao 69 lô đất với diện tích 620.000m2 cho đất công cộng, khu hành chính và đất quảng trường, bệnh viện, trường học …
Tất cả quỹ đất trên đạt tổng thu khoảng 2.400 tỷ đồng. Sau khi cân đối thu chi là lãi khoảng 1.900 tỷ đồng. Riêng doanh thu từ việc thu tiền sử dụng đất đến khi kết thúc dự án là 850 tỷ đồng. Đó là chưa kể thu thuế tiền chuyển quyền sử dụng đất và xây dựng ước tính hàng chục tỷ đồng. Sau gần 20 năm thực hiện dự án, Ban quản lý đã hoàn thành và bàn giao cho TP. Rạch Giá quản lý và khai thác sử dụng.
Khu lấn biển hướng ra Vịnh Thái Lan (trên 500 m) và chạy dài trên 7 km, mở rộng thành phố (tăng thêm 2 phường mới) và hình thành những KĐT mới lớn nhất vùng Tây Nam Bộ. Đây là Dự án lấn biển đầu tiên của cả nước, tạo ra quỹ đất 439 ha, giải quyết đất cho 65.000 người dân và các khu công ích, cơ quan ban ngành… Dự án còn tạo công việc làm ổn định cho hơn 10.000 người ở địa phương. Đặc biệt dự án này đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo từ đô thị loại III nâng lên thành phố Rạch Giá loại II với cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại và đồng bộ, tạo ra quỹ đất chiếm 20 % diện tích thành phố (4,39 /107,8) là khu vực ở của 25 % dân số đô thị với mức sống đô thị loại II đầy đủ tiện nghi, là nguồn thu chủ lực cho ngân sách tỉnh trong lĩnh vực kinh doanh địa ốc thành phố Rạch Giá.
Dự án Lấn biển Rạch Giá được coi là công trình độc đáo, đầy sáng tạo của Kiên Giang, bởi đây là lần đầu tiên trong cả nước có dự án “dời non lấp biển” để xây dựng một khu đô thị quy mô lớn, tạo ra quỹ đất rộng gần 450 ha, bố trí chỗ ở cho 65.000 dân. Hơn nữa, Dự án lại được thực hiện chủ yếu bằng phát huy nội lực theo phương thức đổi đất lấy hạ tầng.
Việc xây dựng tuyến đê biển cho vịnh Rạch Giá – Kiên Giang ngoài việc làm giảm thiểu tác động của lũ sông Mekong kết hợp với triều cao ngoài biển mà còn tạo ra cho khu vực một hồ trữ nước ngọt với dung tích lớn (khoảng 3,5 tỷ m3). Đây chính là điều kiện để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của khu vực như: Nuôi trồng thủy hải sản, phục vụ nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Trong mùa lũ, do áp lực lũ chảy ra biển, trong những năm lũ lớn mặn xâm nhập vào trong hồ không đáng kể. Đối với lũ nhỏ, mặn có khả năng xâm nhập vào trong vịnh nhưng nồng đồ mặn tại cửa Rạch Giá vẫn duy trì ở mức 0. Ngoài ra, với thiết kế đê biển sẽ tạo ra một tuyến đường bộ giao thương thuận lợi giữa các điểm Hòn Chông, Hòn Tre, Xẻo Quao của vịnh Rách Giá. Tuyến đê biển mới cũng là tiền đề chuyển đổi sản xuất và phát triển thêm một số ngành kinh tế như: Du lịch, cảng biển và điện gió…; tạo quỹ đất để mở rộng TP Rạch Giá; tạo nên một hệ cảnh quan sinh thái mới vùng ven biển để phát triển du lịch.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM:
Các dự án lấn biển của Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc mở mang đất đai, chưa có các mục tiêu khác như: Kiểm soát mực nước triều, chống triều cường, tăng khả năng thoát lũ, hay dùng mặt biển làm không gian chứa nước ngọt cung cấp cho dân sinh và phát triển kinh tế ven biển. Trước diễn biến ngày càng cực đoan của thời tiết, việc chinh phục thiên nhiên nhằm chống chọi với thiên tai, cùng với sự tiến bộ của công nghệ và vật liệu mới thì yêu cầu về các tuyến đê biển mới không chỉ là mục tiêu mở mang đất đai mà còn để bảo vệ dân cư, kiểm soát lũ, triều cường và tạo hồ, trữ nước ngọt, giúp đáp ứng sinh kế của người dân và là phương án đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ.
Từ kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới cho thấy việc xây dựng hệ thống đê biển để trữ nước ngọt và kiểm soát hạn mặn là việc làm cần thiết đối với các quốc gia ven biển. Điều này càng trở nên cấp thiết với quốc gia có đường bờ biển dài như Việt Nam và khu vực châu thổ ĐBSCL đang có nguy cơ xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu toàn cầu. Bài học của Hà Lan đã xây dựng tuyến đê biển khổng lồ Afsluitdijk để “thuần hóa” vùng đồng bằng châu thổ sông Rhin thuộc Hà Lan, khu vực có điều kiện tự nhiên, thiên tai gần giống với ĐBSCL. Tuyến đê biển khổng lồ này đã cô lập vịnh ngập triều nước mặn Zuiderzee; cải tạo chất lượng nước và hệ sinh thái cửa sông thành “biển hồ” nước ngọt với tổng diện tích 110.000ha, mở rộng thêm diện tích đất thổ cư và canh tác nông nghiệp.
Cần phải đặc biệt quan tâm lưu ý khi phát triển các dự án lấn biển, đó là sự ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, đất ngập nước, biến đổi dòng chảy ở các khu vực gần cửa sông, đời sống của người dân ven biển và đặc biệt là biến đổi khí hậu trong thế kỉ XXI. Trước khi thực hiện lấn biển, cần nghiên cứu kỹ về tác động biến đổi sinh thái, môi trường, khí hậu, tham khảo ý kiến chuyên môn của các chuyên gia đầu ngành nhằm ngăn chặn những hậu quả xấu có thể xảy ra. Bài học rút ra từ UAE đã cần tới 92 triệu m3 cát để xây dựng Palm Jumeirah, trong đó chủ yếu là hút từ vùng biển lân cận. Công trình đã phá vỡ dòng chảy tự nhiên ngoài khơi, khiến cát bị cuốn khỏi một số khu vực của bãi biển tự nhiên đi nơi khác.
Giải pháp năng lượng xanh, sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ cũng cần tính đến. Cần phải có giải pháp để lấy nguyên liệu lấn biển giá thành rẻ, sẵn có và hiệu quả. Ví dụ như ở Quảng Ninh, chúng ta đã có kinh nghiệm từ việc sử dụng xỉ than khi lấn biển ở Cẩm Phả. Việc dùng loại nguyên liệu này không chỉ giải quyết được vấn đề xử lý xỉ than tại chỗ mà còn tận dụng được nguồn nguyên liệu giá rẻ, sẵn có của địa phương.
ThS.KTS Nguyễn Kim Anh
Viện Kiến trúc – Hội Kiến trúc sư Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Ý kiến chuyên gia:
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), Đánh giá sơ bộ một số nội dung đề nghị xây dựng Nghị đinh quy đinh về lấn biển, Dự thảo Báo cáo chính sách, 2020.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), Đánh giá thực trạng các vấn đề liên quan đến đề nghị xây dựng Nghị định quy định về lấn biển, Dự thảo Báo cáo chính sách, 2020.
4. Tham luận “20 năm đô thị lấn biển Thành Phố Rạch Giá “, Kỷ yếu Gặp gỡ mùa thu 2017 của Hội Kiến trúc sư Việt Nam
5. Nguyễn Song Tùng, Kiểm soát chặt chẽ những vấn đề môi trường của các dự dự án lấn biển, Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2 (33) 2021
7. https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/bai-5-dep-giau-nho-lan-bien-kinh-nghiem-the-gioi-va-bai-hoc-cho-viet-nam
8. https://zingnews.vn/cong-cuoc-lap-bien-mo-dat-cua-singapore-post740247.html
9. https://canhquan.net/portfolio/bai-hoc-kinh-nghiem-quy-hoach-tu-ha-lan-1?p=1
10. http://redsvn.net/nhung-bai-hoc-kinh-nghiem-tu-lich-su-tri-thuy-cua-ha-lan/
Nguồn: Vienkientruc.vn