Quản lý không gian công cộng ven biển tại thành phố Phú Quốc tỉnh Kiên Giang.

1. Đặt vấn đề

Kiên Giang là một trong 28 tỉnh, thành trong cả nước có biển, có hệ sinh thái vùng ngập mặn ven bờ và đa dạng, tài nguyên với tiềm năng đất đai, đồi núi, khoáng sản, rừng nguyên sinh, biển đảo. Vùng biển với diện tích khoảng 63.290 km2, bờ biển dài khoảng 200km, với hơn 140 hòn đảo lớn nhỏ, có 40 hòn đảo có dân cư sinh sống. Nằm trong vùng vịnh Thái Lan, bờ biển trên phần đất liền của tỉnh trải dài từ huyện An Minh đến thành phố Hà Tiên, qua 07 huyện, thành phố với chiều dài khoảng 200 km.

Kiên Giang là một tỉnh ven biển, là một trong 13 tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, vị trí nằm tận cùng phía Tây Nam của Việt Nam. Lãnh thổ bao gồm phần đất liền và hải đảo, diện tích tự nhiên rộng 6.348,5 km2, dân số khoảng 1.723.067 người. Tỉnh có 15 đơn vị hành chính, gồm 03 thành phố và 12 huyện, trong đó thành phố Phú Quốc và huyện Kiên Hải thuộc vùng hải đảo. Vịnh Rạch Giá là một trong 8 vịnh chính dọc theo đường bờ biển Việt Nam. Vịnh cửa sông duy nhất của Việt Nam ở bờ biển phía Tây, diện tích khoảng 1.226km2.

Thành phố Phú Quốc là đô thị loại II, thành phố biển đảo đầu tiên của Việt Nam, nằm trên vùng biển Tây Nam Bộ, cực Nam của Tổ quốc. Hòn đảo lớn nhất Việt Nam, diện tích tự nhiên rộng 589,923 ha, dân số khoảng 179.480 người, gồm 09 đơn vị hành chính (02 phường: Dương Đông, An Thới và 07 xã: Hàm Ninh, Dương Tơ, Gành Dầu, Bãi Thơm, Cửa Dương, Cửa Cạn và xã đảo Thổ Châu).

Hiện nay, Phú Quốc có khoảng 150km bờ biển, chiều dài các bãi cát ven biển có khả năng phát triển du lịch (bãi tắm) khoảng 48,8km được phân bố tại 18 bãi tắm công cộng. Tại đây, nhiều KGCC ven biển đã được quan tâm, đầu tư và trở thành hình ảnh đặc trưng của Phú Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển của các KGCC ven biển tại Phú Quốc còn chưa đồng đều, các khu vực tư nhân được quan tâm đầu tư nhưng có sự hạn chế cho người tiếp cận, sử dụng. Trong khi đó, các KGCC thuộc phạm vi quản lý của nhà nước lại đơn sơ, thiếu cải tạo, chỉnh trang nên bị xuống cấp và ít thu hút người dân và du khách. Chưa có giải pháp quản lý hiệu quả để phát huy giá trị đặc trưng không gian công cộng ven biển của thành phố Phú Quốc.

Định hướng của Chính phủ tại Quyết định 633/QĐ-TTg ngày 11/5/2010; Quyết định 241/QĐ-TTg ngày 24/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang nhiệm kỳ 2021-2022; Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố Phú Quốc nhiệm kỳ 2021-2025 và Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 của Bộ chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quan điểm chỉ đạo “… đảm bảo quy hoạch đô thị phải có tầm nhìn dài hạn, đồng bộ và hiện đại, lấy con người và chất lượng cuộc sống làm trung tâm, văn hoá và văn minh đô thị là nền tảng phát triển…”.

Để hoàn thiện tiêu chuẩn sống của người dân đô thị loại II, hướng đến thành phố xanh, phát triển bền vững và thành phố Phú Quốc đạt đô thị loại I trực thuộc tỉnh vào năm 2025, do đó việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp  quản lý không gian công cộng ven biển tại thành phố Phú Quốc là rất cần thiết.

 2. Thực trạng công tác quản lý KGCC ven biển tại tp Phú Quốc

Trong quá trình phát triển, Phú Quốc được Chính phủ phê duyệt “đề án phát triển tổng thể đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020” năm 2004 (QĐ 178/2004/QĐ-TTg); quy hoạch chung xây dựng đảo Phú Quốc năm 2005 (quyết định 1197/QĐ-TTg), điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng đảo Phú Quốc năm 2010 (quyết định 633/QĐ-TTg), Điều chỉnh cục bộ điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng đảo Phú Quốc lần 1 năm 2015 (quyết định 868/QĐ-TTg) và lần 2 năm 2021 (quyết định 486).

Bảng tổng hợp quy hoạch sử dụng đất toàn đảo sau khi điều chỉnh cục bộ lần 1 (năm 2015) và lần 2 (năm 2021).

 

năm 2021

 Chính phủ thành thành lập khu kinh tế Phú Quốc năm 2013 (quyết định 31/2013/QĐ-TTg); công nhận đô thị loại II năm 2014 (quyết định 1676/QD(-TTg) và thành lập thành phố Phú Quốc 2020 (Nghị quyết 1109/NQ-UBTVQH). Phú Quốc là 1 trong 3 thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang, thành phố biển đảo đầu tiên của Việt Nam.

Căn cứ các quy hoạch chung xây dựng đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang đến năm 2030 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đã phê duyệt 31 đồ án quy hoạch phân khu, diện tích 8.597ha (khoảng 77%); ban hành quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị đảo Phú Quốc; Ban quản lý khu kinh tế Phú Quốc đã phê duyệt 277 đồ án quy hoạch chi tiết, diện tích 7.878ha (khoảng 61%).

UBND tỉnh Kiên Giang phê duyệt và công bố đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm trên địa bàn tỉnh Kiên Giang năm 2021 (QĐ 2043/QĐ-UBND); phê duyệt danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển tỉnh Kiên Giang năm 2021 (QĐ 2044/QĐ-UBND); uỷ quyền thực hiện một số nhiệm vụ cho ban quản lý khu kinh tế Phú Quốc năm 2020 (QĐ 3034/QĐ-UBND);  quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BQL khu kinh tế Phú Quốc năm 2020 (QĐ 962/QĐ-UBND ngày 20/4/2020).

Hiện nay, Phú Quốc có khoảng 150km bờ biển, chiều dài các bãi cát ven biển có khả năng phát triển du lịch (bãi tắm) khoảng 48,8km được phân bố tại 18 bãi tắm công cộng. Tại đây, nhiều KGCC ven biển đã được quan tâm, đầu tư và trở thành hình ảnh đặc trưng của Phú Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển của các KGCC tại Phú Quốc còn chưa đồng đều, các khu vực tư nhân được quan tâm đầu tư nhưng có sự hạn chế cho người tiếp cận, sử dụng. Trong khi đó, các KGCC thuộc phạm vi quản lý của nhà nước lại đơn sơ, thiếu cải tạo, chỉnh trang nên bị xuống cấp và ít thu hút người dân và du khách. Chưa có giải pháp quản lý hiệu quả để phát huy giá trị đặc trưng không gian công cộng của thành phố Phú Quốc.

 

STT

Bảng thống kê quy mô diện tích các bãi tắm công cộng của thành phố Phú Quốc

Trong khoảng thời gian 18 năm phát triển kể từ khi có quyết định số 178/2004/QĐ-TTg ngày 5/10/2004. Thành phố Phú Quốc đã phát triển đúng định hướng và đã được ghi tên vào bản đồ du lịch quốc tế.

3. Những vấn đề cơ bản rút ra từ các nước trên thế giới

(1).  “Quản lý “mềm” – Chính sách về không gian công cộng của Thụy Sỹ” của Giáo sư Ola Söderström – Viện nghiên cứu địa lý, Đại học Neuchâtel, Thụy Sỹ.

Sự phát triển của chính sách không gian công cộng tại Châu Âu 

Các thành phố này đã hoạch định các chính sách phát triển khác nhau nhưng lại có rất nhiều các đặc điểm tương đồng:

(1). Các chính sách không gian công cộng này là các sáng kiến của thành phố, không phải là các sáng kiến mang tầm quốc gia;

(2). Các chính sách này không có tính pháp lý cao (các chính sách được triển khai thông qua các kế hoạch hoặc các hiến chương của địa phương thay vì một đạo luật mang tính cưỡng chế);

(3). Các chính sách này có sự tham gia của cộng đồng;

(4). Các chính sách này liên quan đến việc tổ chức lại các dịch vụ kỹ thuật của thành phố;

(5). Các chính sách này có mối liên hệ chặt chẽ với khả năng di chuyển và các chính sách về giao thông.

Chính sách về không gian công cộng của Thụy Sỹ và thực tiễn triển khai 

Liên bang Thụy Sỹ được chia thành ba cấp quản lý: Nhà nước liên bang hay còn gọi là cấp nhà nước, cấp tiểu bang (có 26 tiểu bang tại Thụy Sỹ) và cấp thành phố.

Ở cấp Nhà nước sẽ thấy rằng trên thực tế chính sách không gian công cộng đề cập rất ít, quy định này rất chung chung.

Ở cấp tiểu bang, dù có sự khác biệt tại mỗi bang, nhưng nhìn chung cũng có rất ít các quy định pháp lý, các chỉ dẫn cũng tương đối mập mờ. “Quy định các cộng đồng dân cư phải áp dụng các nguyên tắc hướng dẫn về không gian công cộng trong quy hoạch tổng thể của mình”,  “các quy hoạch của địa phương phải đưa ra được các mục tiêu cụ thể cho các quy hoạch và thiết kế không gian công cộng”.

Ở cấp thành phố, chính sách về không gian công cộng được kết hợp vào việc lập quy hoạch tổng thể. Do vậy, vấn đề của các chính trị gia của thành phố hoặc của địa phương là biến nội dung này thành một phần quan trọng của quy hoạch đô thị.

(2) Không gian công cộng bên sông bên biển: Từ Seoul và Busan nhìn về Đà Nẵng

Busan có cả sông cả biển, và được gọi là thủ đô mùa hè của Hàn Quốc vì nó thu hút khách du lịch từ khắp nơi trên đất nước đến với sáu bãi biển của nó, đặc biệt là bãi biển lớn nhất và nổi tiếng nhất là bãi Haeundae. Đây là nơi tập trung nhiều khách sạn sang trọng, văn phòng và căn hộ cao cấp, trong đó có rất nhiều tháp cao tầng.

Thiết kế trục chính thương mại liên kết ngang với khu chợ bản địa.

Đường dạo dọc bờ biển được thiết kế rộng rãi với nhiều lớp (layer) chạy song song. Thí dụ, tính từ mặt nước vào trong thì đầu tiên là lớp bãi cát, rồi lớp lối đi bộ bê tông, rồi tới lớp đường hàng cây bóng mát và dải bê tông thấp kiêm chỗ ngồi nghỉ, rồi cuối cùng là lớp mặt sân sau của các resort, hoặc các lối đi dạo ngắm cảnh, ngồi chơi lát gỗ hình ziczac.

Một điểm rất đáng lưu ý trong vấn đề thiết kế đô thị và kiểm soát phát triển ở đây là các resort tư nhân không chặn bãi biển công cộng. Giới hạn sân sau của các resort chỉ chạy tới đường dạo bộ là dừng, nên không có bãi biển riêng. Và ranh giới giữa resort (không gian tư nhân) và đường dạo bộ (KGCC) chỉ là một hàng rào cây thấp không quá tầm mắt, đóng vai trò ranh giới mờ. Hoàn toàn không có rào cản thị giác giữa không gian tư nhân và công cộng. Mọi vấn đề an ninh có bảo vệ và CCTV đảm nhiệm.

Công viên biển

Công viên Millak Waterfront nằm giữa bãi biển Haeundae và Gwangalli là công viên đầu tiên kết hợp bãi biển với các tiện ích giải trí công cộng. Công viên có diện tích 33.507m², có thể chứa tới 40.000 du khách. Sàn của công viên được trang trí nhiều màu sắc, đồng thời có vườn hoa, vọng lâu và ghế dài là nơi để thư giãn, ngắm cảnh và vui chơi.

Nhìn về Đà Nẵng.

Đồ án Quy hoạch chung Thành phố Đà Nẵng vừa được Thủ tướng phê duyệt (359/QĐ-TTg) là một dấu mốc rất quan trọng cho thành phố. Xoay quanh các chủ đề chiến lược phát triển đô thị, quy hoạch và thiết kế đô thị 5 vấn đề chính cần được quan tâm: (1) resort chặn mặt tiền biển và vắng bóng dần bãi biển công cộng, (2) thiết kế mặt cắt đô thị để sao cho các khối phát triển phía sau cũng có view ra biển, và cho phép gió từ biển thổi vào phía bên trong đô thị, (3) tăng cường không gian đi bộ, tập trung khai thác tối đa quỹ đất hiện có, không lãng phí thêm, (4) xóa bỏ “quy hoạch treo”, và (5) tăng cường nhiều loại hình công trình và tiện ích nhỏ cho dịch vụ và nghỉ ngơi, thư giãn, các điểm dừng chân, ngắm cảnh…, qua đó tăng cường thêm sức hấp dẫn và tính đáng sống cho thành phố.

Có một số rào cản lớn có thể điểm nhanh ra đây. Thứ nhất, công cuộc “đối đất lấy hạ tầng” nhiều năm về trước được coi là một thành công lớn của Đà Nẵng giúp phát triển hạ tầng vượt trội. Tuy nhiên sau nhiều năm, “cái giá” phải trả cũng lộ ra khi nhiều khu vực đất vàng hai bên bờ sông Hàn được thâu tóm, rồi mua đi bán lại, trong đó có những dự án trở thành “treo”. Điều này không chỉ gây lãng phí rất lớn về đất đai đặc biệt là đất ở vị trí vô cùng trung tâm, mà còn tạo các “chướng ngại vật” dọc hành lang KGCC hai bờ, làm giảm tính liên tục của không gian, gây khó khăn cho việc tạo các tuyến đạp xe hay dạo bộ dọc sông. Thứ hai là tại khu vực bờ biển, vấn đề “bịt mặt tiền biển” bởi một se-ri các resort nối tiếp nhau chạy dọc đường Bờ Biển về phía Hội An, làm mất đi lối tiếp cận (access) cũng như các bãi biển công cộng đã trở thành vấn đề nhức nhối nhiều năm nay. Thành phố đã đang dần dần khắc phục bằng việc thu hồi các resort xây dựng chậm tiến độ, và tạo ra các đường “chọc khe” để tạo lối ra biển.

 4. Nhận diện các yếu tố đặc trưng của KGCC ven biển tp Phú Quốc.

Tổng thể chung thì khu vực phía Tây là khu vực động tập trung phát triển liên hoàn các đô thị An Thới – Bãi Trường – Dương Đông – Cửa Cạn – Bãi Dài – Gành Dầu. Định hướng phát triển các đô thị nén và cao tầng. Khu vực phía Đông chủ yếu bố trí các khu du lịch, khu đô thị Hàm Ninh, khu Bãi Thơm… và phần lớn là khu vực Vườn quốc gia Phú Quốc.

Khu vực 1: Phía Tây Nam tp Phú Quốc.

Nhận diện không gian công cộng ven biển của của khu vực này là các bãi biển kéo dài theo hướng Bắc Nam, tập trung rất nhiều các dự án của các nhà đầu tư đã hoạt động và đang chuẩn bị đầu tư. Phạm vi hành lang biển và đường giao thông công cộng (không có xe cơ giới) rộng 76m. Khu vực quảng trường biển gắn với ga cáp treo An Thới. Không gian công cộng tại khu vực này phát huy giá trị đã tạo được sự đồng thuận của các nhà đầu tư, người dân và du khách.

Khu vực 2: Phía Đông Nam tp Phú Quốc.

Khu vực này định hướng phát triển các khu du lịch cao cấp và các quảng trường biển, tập trung tại Bãi Sao, Bãi Khem và khu vực Mũi Ông Đội. Quảng trường biển tại khu vực Bãi Khem đầu tư đúng theo quy hoạch chi tiết và đã phát huy tác dụng. Khu vực không gian công cộng ven biển khu vực Mũi Ông Đội thì có sự hạn chế tiếp cận của người dân và du khách.

Khu vực 3: Phía Tây Bắc tp Phú Quốc.

Khu vực này định hướng phát triển đô thị Dương Đông gắn với cảng hành khách quốc tế Dương Đông. Khu vực này không gian công cộng ven biển chưa được đầu tư xây dựng (Chỉ có 1 quảng trường biển và một phần bãi tắm ở khu vực Dinh Cậu). Không gian công cộng ven biển tại khu vực Bãi Ông Lang, Cửa Cạn, Bãi Dài đang được chuẩn bị đầu tư và cũng có hạn chế sự tiếp cận của cộng đồng.

Phía Đông Bắc tp Phú Quốc.

Khu vực này không gian công cộng ven biển gắn liền với không gian Vườn quốc gia và khu vực bảo tồn biển, đây là yếu tố rất đặc trưng của khu vực này. Không gian các bãi biển và độ dốc rất thoãi nhẹ về phía Đông và đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư.

 5. Đề xuất giải pháp quản lý KGCC ven biển tại thành phố Phú Quốc

Tham luận này tập trung đề xuất các nguồn lực thực hiện.

(1) Nguồn lực về cơ chế chính sách: Trên cơ sở các yếu tố đặc thù của thành phố Phú Quốc đã và đang triển khai thực hiện thông qua các quy hoạch chung, quy hoạch phân khu. Thành phố Phú Quốc tập trung hoàn thiện các quy hoạch chi tiết các khu vực không gian công cộng (trong đó lồng ghép các các cơ chế  về đất đai, tài chính, thẩm quyền…) làm cơ sở xây dựng kế hoạch thực hiện.

(2) Nguồn lực về nguồn vốn đầu tư: UBND thành phố Phú Quốc cần bố trí vốn để đầu tư các hạng mục chính của không gian công cộng ven biển và cần có cơ chế phối với các nguồn vốn ngoài xã hội để thực hiện. Theo báo cáo thì tỷ lệ thu hút nguồn vốn ngoài xã hội so với nguồn vốn từ ngân sách là 1 vốn ngân sách thì thu hút được 29 vốn ngoài ngân sách.

(3) Nguồn lực về trí thức: Tổ chức các hội thảo khoa học về không gian công cộng, lấy ý kiến các nhà khoa học, các chuyên gia… (lắng nghe và tiếp thu các định hướng mới về phát triển không gian công cộng ven biển). Tổ chức thi tuyển phương thiết kế để chọn phương án tốt nhất, có tính đặc trưng tiêu biểu của từng không gian công cộng ven biển. Đây là yếu tố nền tảng để thành phố Phú Quốc có những không gian công cộng ven biển tốt nhất để phục vụ cộng đồng dân cư.

(4) Nguồn lực về các điều kiện tự nhiên: Trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của các không gian công cộng ven biển của thành phố Phú Quốc. Tập trung phát huy cao nhất cho yếu tố đặc trưng tiêu biểu nhằm tạo nên sự đa dạng cho từng không gian công cộng ven biển. Không gian công cộng ven biển thành phố Phú Quốc gắn liền với văn hoá biển vùng Tây Nam Bộ.

(5) Nguồn lực từ các quy hoạch: Hoàn thiện các quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất. Đề xuất các cơ chế đặc thù vào trong các quy hoạch để làm cơ sở thực hiện. Thực hiện đầu tư và kêu gọi đầu tư. Quy hoạch là công cụ là cơ chế để tạo ra nguồn lực thực hiện.

 Phú Quốc trong quá trình phát triển hướng đến đạt đô thị loại I trực thuộc tỉnh Kiên Giang trước năm 2025. Sự thiếu hụt cũng như hạn chế tiếp cận của người dân và du khách tới các không gian công cộng ven biển đã được nhận thấy rõ ràng. Tham luận đã đánh giá thực trạng quản lý, học tập kinh nghiệm , nhận diện và đề xuất giải pháp quản lý không gian công cộng ven biển tại thành phố Phú Quốc.

Xin trân trọng cảm ơn.

 

ThS. KTS Văn Thanh Khương

Giám đốc Sở Xây dựng Kiên Giang.

Nguồn: Vienkientruc.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *